Kỷ yếu

Kỷ yếu

LỄ KỶ NIỆM 45 NĂM THÀNH LẬP CÔNG TY

 


LỜI NÓI ĐẦU 

45năm qua, với nỗ lực không ngừng, Công ty Cổ phần chế biến xuất nhập  

khẩu thủy sản tỉnh BR-VT (BASEAFOOD) đã trở thành một trong những  doanh nghiệp chế biến thủy sản nằm trong top đầu cả về sản lượng sản  phẩm chế biến và kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Sản phẩm mang thương hiệu  BASEAFOOD ngày càng được tín nhiệm và quảng bá rộng rãi trên thị trường thủy  sản thế giới. 

Từ chỗ có thể giải thể, doanh nghiệp suy thoái, đi đến phá sản trong giai đoạn  những năm 90 thì BASEAFOOD đã vực dậy vươn lên sau khi được tỉnh củng cố và  thay đổi phương thức quản lý cổ phần hóa, thay đổi toàn diện mô hình hoạt động.  Nhờ đó, công ty ngày càng hiệu quả, phát triển với nhiều đột phá. Đến nay công ty  đã có hơn 100 cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh, với hơn 1.000 công nhân sản  xuất chế biến chuyên nghiệp, đủ trình độ, cạnh tranh được với thị trường, làm ra  những sản phẩm chất lượng cung cấp vào thương trường quốc tế. Các nhà máy của  công ty đã được xây dựng theo tiêu chuẩn HACCP với đầy đủ máy móc, thiết bị hiện  đại, quản lý theo các tiêu chuẩn BRC, ASC, MSC, IFS, HALAL, FDA…có thể sản xuất  ra những sản phẩm thủy hải sản đạt chất lượng cao, cung cấp cho các thị trường  khó tính. Đây cũng là thời điểm ghi nhận những thành tích của tập thể người lao  động đã miệt mài hăng say trong lao động sản xuất, làm ra những sản phẩm có giá  trị gia tăng, chất lượng được nhiều khách hàng trên thế giới đón nhận và khen ngợi.  

Với chặng đường 45 năm hình thành và phát triển, BASEAFOOD tiếp tục hành  trình của mình với những bước đi chuyên nghiệp và hiện đại hơn để tham gia sâu  hơn vào thị trường thương mại tự do đang ngày càng rộng mở. Đồng thời đáp ứng  nhu cầu ngày càng khắt khe của các đối tác nước ngoài khó tính và tăng sức cạnh  tranh cho các sản phẩm tại các thị trường xuất khẩu.  

45 năm- một chặng đường không dài nhưng đủ để khẳng định sự trưởng thành và  phát triển của BASEAFOOD. Nhân dịp này, Ban lãnh đạo công ty trân trọng giới  thiệu cuốn kỷ yếu “BASEAFOOD 45 năm xây dựng và phát triển” nhằm ghi nhận,  khẳng định sự nỗ lực, sát cánh bên nhau, đoàn kết chung sức của tập thể lãnh đạo,  cán bộ, công nhân lao động trong xây dựng vị thế, thương hiệu BASEAFOOD hôm  nay. Đây cũng là tư liệu giáo dục truyền thống truyền lại cho tuổi trẻ và đội ngũ kế  thừa nghiên cứu, học tập, rút ra bài học kinh nghiệm quý báu để thực hiện trong  thời gian tới. 

Xin trân trọng cảm ơn! BAN BIÊN SOẠN 

PREAMBLE  

 

 

 

Ông Nguyễn Công Luân - Giám đốc XNĐL Đồng Nai tiếp đón đoàn khách Nhật Bản tại buổi lễ khánh thành XNĐL Đồng Nai.

 

 

ĐÔI DÒNG TỰ SỰ NGUYỄN CÔNG LUÂN (Nguyên Giám đốc Công ty Baseafood (thời kỳ 1992-1996) Những năm 1976 – 1980, sau khi đất nước được thống nhất, ngành thủy sản bước sang giai đoạn phát triển mới trên phạm vi cả nước. Tầm cao của ngành được đánh dấu bằng việc thành lập Bộ Hải sản vào năm 1976 (sau đó đổi tên là Bộ Thủy sản ) và thành lập cơ quan quản lý ngành thủy sản phù hợp theo địa hình, địa giới của từng địa phương và ngành thủy sản Đồng Nai được hình thành từ giai đoạn lịch sử đó. Bước đầu thành lập Ty thủy sản Đồng Nai, do thiếu cán bộ quản lý nên Tỉnh ủy Đồng Nai đã điều động bà Đoàn Thị Khanh (bà Mười Hai) là Thường vụ Tỉnh ủy làm Trưởng Ty Thủy sản Đồng Nai, Bộ Thủy sản đã điều động một đồng chí là Phó giám đốc Ty Thủy sản tỉnh Quảng Ninh chi viện để hỗ trợ công tác lãnh đạo trong thời gian 6 tháng, đồng thời điều động ông Hoàng Bá Thu giữ chức vụ Phó chủ nhiệm điều hành chung về hoạt động của công ty Hải sản Đồng Nai và tôi là cán bộ kỹ thuật, phụ trách thu mua, chế biến cùng một số cán bộ nghiệp vụ khác. Tại thời điểm này do cơ chế quản lý chưa phù hợp, sản phẩm thu hoạch sau đánh bắt được tiêu thụ theo cách giao nộp sản phẩm, đánh giá kết quả theo khối lượng hàng hóa, không chú trọng đến giá trị của sản phẩm. Từ năm 1980, ngành thủy sản Đồng Nai được đón vị lãnh đạo mới là ông Nguyễn Thuận (ông Ba Thuận) là ủy viên thư ký của UBND tỉnh Đồng Nai làm Giám đốc Ty Thủy sản. Dưới sự lãnh đạo của ông Nguyễn Thuận ngành thủy sản Đồng Nai bước vào giai đoạn phát triển mới về khai thác, nuôi trồng, dịch vụ hậu cần, chế biến và xuất khẩu; đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất và mở rộng hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, do Tỉnh Đồng Nai lúc bấy giờ không có nhà máy chế biến thủy sản mà chỉ có 1 xưởng đông lạnh nhỏ tại TP. Vũng Tàu do chế độ cũ để lại với chức năng chỉ là sơ chế và tiêu thụ nhanh nên không đem lại hiệu quả.

Ban lãnh đạo Công ty Baseafood chụp hình lưu niệm cùng cán bộ quản lý các cơ sở trực thuộc tại văn phòng Công ty, số 460 Trương Công Định, Phường 8, TP. Vũng Tàu.

 

Điều may mắn với tôi là trong quá trình công tác được sự quan tâm của lãnh đạo ngành, được tham dự các cuộc họp quan trọng, qua đó việc được nghe thông tin tỉnh Đồng Nai đang thu giữ 02 tàu đánh bắt cá của nước ngoài do vi phạm lãnh hải Việt Nam có hệ thống đông lạnh với công suất cao, thiết bị tiên tiến nên tôi đã đề xuất tháo gỡ toàn bộ hệ thống máy móc thiết bị đông lạnh trên 2 tàu cá này và phối hợp với Trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh thiết kế nhà máy và chế tạo thêm một số thiết bị phù hợp để hoàn chỉnh một nhà máy đông lạnh tương đối hiện đại lúc bấy giờ và Xí nghiệp Đông lạnh Đồng Nai được khánh thành năm 1983. Cũng tại thời điểm này, sự ra đời của Công ty xuất nhập khẩu thủy sản Việt Nam - Seaprodex được Nhà nước cho phép áp dụng thử nghiệm cơ chế “tự cân đối - tự trang trải” mà thực chất là nâng cao giá trị của sản phẩm làm ra, đây là nguồn động lực cho sự phát triển của ngành thủy sản Đồng Nai. Qua thành công bước đầu và phát huy các nguồn lực, Liên hiệp Xí nghiệp xuất khẩu thủy sản Đồng Nai (là tiền thân của Công ty Cổ phần chế biến XNK thủy sản tỉnh BR-VT (BASEAFOOD) hiện nay ) đã chú trọng và ưu tiên đầu tư cho việc chế biến, xuất khẩu thủy sản kết hợp với sự năng động của Ban lãnh đạo, của đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp qua các thời kỳ đã đem lại hiệu quả thiết thực, hàng hóa đa dạng với chất lượng sản phẩm ổn định, thị trường xuất khẩu được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu đã được tăng cao qua từng năm, đặc biệt là đã giải quyết được công việc làm và thu nhập cho hàng ngàn người lao động của địa phương. Ngoảnh nhìn lại, tôi nhận thấy hầu như gần trọn cuộc đời đã gắn bó với ngành thủy sản; quá trình công tác qua từng giai đoạn có nhiều thăng trầm, nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, nhưng khi đến tuổi được nghỉ ngơi để vui vầy với con cháu đã chứng kiến Công ty BASEAFOOD ngày càng lớn mạnh, ngày càng nâng cao uy tín trên thương trường; với Ban lãnh đạo năng động, nhiệt huyết và đội ngũ cán bộ - kỹ thuật cùng toàn thể công nhân viên chuyên nghiệp như hiện nay, tôi tin rằng BASEAFOOD sẽ lớn mạnh hơn nữa và đem lại nhiều lợi ích cho người lao động, cho địa phương, cho xã hội. Chúc các đồng chí và gia đình luôn mạnh khỏe, thắng lợi. Chúc công ty BASEAFOOD phát triển bền vững.

 

CHỚ THẤY SÓNG CẢ MÀ NGÃ TAY CHÈO

HÃY CÙNG NHAU NẮM CHẶT TAYCÙNG VỮNG BƯỚC TIẾN LÊN ! Năm 1976, vừa tròn 20 tuổi- tôi vào làm việc tại Công ty Hải sản tỉnh Đồng Nai (đơn vị tiền thân của BASEAFOOD) và được phân công đi thu mua tôm ở huyện Duyên Hải- Cần Giờ. Từ một cậu học sinh cấp 3 chưa biết tôm cá là gì cả, trải qua nhiều nhiệm vụ, di chuyển làm việc nhiều nơi, thăng trầm trong cuộc sống, thấm thoắt mà đã 45 năm - với chỉ một ngành nghề - một địa phương - một hệ thống. Được cấp trên phân công về Công ty chế biến Xuất nhập khẩu thủy sản tỉnh BR-VT (BASEAFOOD) năm1999 với nhiệm vụ lãnh đạo trong bối cảnh nhiều khó khăn, phức tạpm bản thân lại chưa có kinh nghiệm giải quyết các vướng mắc về tài chính, thị trường, lực lượng lao động đông... nên vô cùng bối rối. Được sự động viên của lãnh đạo tỉnh và các ngành chức năng, sự giúp đỡ của các tổ chức tín dụng, sự hỗ trợ tham mưu của anh chị em và người lao động trong công ty, đã tạo động lực vô cùng quan trọng trong việc điều hành, từng bước giải quyết các ách tắc, đưa công ty và các cơ sở đi vào hoạt động nền nếp. Với những thuận lợi như thế cộng với nỗ lực chính mình mà trong hơn 20 năm qua công ty đã từng bước vượt qua bao trở ngại khó khăn: Nâng cấp nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế, trang bị nhiều máy móc thiết bị hiện đại, tiên tiến, quản lý theo yêu cầu chung của thế giới và quan trọng nhất là tạo cho hơn 1.000 lao động có công ăn việc làm ổn định - đưa Công ty có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và quốc tế. Bước chuyển mình quan trọng trong hoạt động của Công ty là thực hiện chủ trương cổ phần hóa theo chỉ đạo của tỉnh năm 2004. Tuy là công việc mới lạ nhưng đã tạo luồng gió mới cho hoạt động tự chủ: tự làm, tự chịu trách nhiệm cho toàn bộ công việc của mình. Chính chủ trương này đã giúp công ty sắp xếp tổ chức lại phương thức quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh theo dạng “Phân quyền” khác phương thức cũ “Tập quyền” trước đây. Phương thức mới này đã giúp cho các lãnh đạo cơ sở tự chủ công việc của mình và kết quả mang lại thật ấn tượng. Sản lượng và giá trị cùng hiệu quả tăng theo cấp số nhân, tiền lương tăng gấp đôi, thậm chí gấp 3 so với trước, người lao động hăng say với công việc.

 

Vấn đề chất lượng nói lên sự sống còn của doanh nghiệp. Thước đo của nó chính là sự hài lòng của khách hàng, đơn hàng đặt ngày càng nhiều, phạm vi mở rộng sản xuất kinh doanh của Công ty ngày một rộng lớn hơn, trên toàn thế giới. Với ý thức sống còn đó - Công ty đã mạnh dạn điều chỉnh các cơ chế về lương, thưởng cho người lao động, các chế độ chính sách khác được quan tâm nhiều hơn, tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội học tập, nâng cao kiến thức, nghiệp vụ, chăm sóc sức khoẻ, du lịch trong và ngoài nước... Với sản lượng sản xuất khoảng hơn 10.000 tấn thành phẩm, doanh số trên 1.200 tỷ đồng, kim ngạch xuất nhập khẩu 60 triệu USD hàng năm - mục tiêu của công ty không thay đổi, đó là: CHUYÊN NGHIỆP - NĂNG ĐỘNG - PHÁT TRIỂN. Công ty luôn tuân thủ công việc điều hành quản lý theo phương thức: tập trung dân chủ, cá nhân phụ trách. Dù hoạt động theo phương thức cổ phần hoá, vốn tư nhân 100 % nhưng quản lý tài chính giống như cũ, một hệ thống sổ sách, minh bạch. Hàng năm đều được kiểm toán độc lập. Tất cả hoạt động đều được báo cáo với Hội đồng quản trị và trước Đại hội đồng cổ đông hằng năm. Các tổ chức, đoàn thể như Đảng, Công đoàn, Thanh niên đều được thành lập và hoạt động xuyên suốt, đúng đắn. Với những thành tích nêu trên, Công ty đã được Đảng, Nhà nước, Chính phủ và UBND tỉnh BR-VT tặng thưởng nhiều Bằng khen, Cờ thi đua, Huân chương cao quý cho các tập thể và cá nhân. 45 năm qua, một chặng đường dài để ghi nhận những việc đã làm được và thiếu sót mắc phải cần ghi nhớ để khắc phục. Mọi người chúng ta luôn ghi nhớ những đóng góp hỗ trợ của quý lãnh đạo, các sở ban ngành trong tỉnh, tri ân các vị tiền bối đã khai phá, thành lập nên ngành thủy sản và các cơ sở thu mua chế biến để chúng ta kế thừa sự nghiệp hôm nay. Chúng ta cũng không quên các anh chị đã công tác tại công ty qua các thời kỳ đã nghỉ hưu hoặc chuyển đi nơi khác- đã đóng góp một phần công sức của mình để tạo nên thành công này. Chặng đường thành công cũng có sự góp sức rất lớn của các khách hàng trong và ngoài nước đã cung cấp nguyên liệu, hướng dẫn kỹ thuật, cộng tác, mua bán hàng hoá trong suốt thời gian qua thật đáng trân trọng. Ngành ngân hàng đã thật sự là bạn đồng hành cùng doanh nghiệp khi hỗ trợ cho Công ty trong suốt thời gian qua về lĩnh vực tài chính kịp thời. Mục tiêu phía trước còn dài và đang rộng mở, với nhiều thời cơ và thách thức đang chờ - đòi hỏi tập thể Ban lãnh đạo và toàn thể người lao động trong công ty phải cùng nhau phấn đấu, đoàn kết, đồng lòng, nỗ lực hơn nữa để hoàn thành nhiệm vụ, kế hoạch đề ra - để không phụ lòng sự quan tâm của lãnh đạo các cấp, của quý cổ đông, của các khách hàng đã và đang đặt niềm tin vào chúng ta. Niềm tin đó chỉ có thể thành hiện thực khi BASEAFOOD phải xây dựng và thực hiện thành công các chiến lược trước mắt và lâu dài một cách hiệu quả. Hãy cùng nhau nắm chặt tay cùng vững bước tiến lên! Vũng Tàu, tháng 4 năm 2022

 

 

Thời kỳ đầu của ngành xuất nhập khẩu thủy sản nước ta, cũng như tỉnh BR-VT và tiền thân Công ty BASEAFOOD, nguồn tài nguyên biển còn phong phú, nhưng công nghệ, kỹ thuật chế biến chưa phát triển. Chúng ta thường xuất khẩu thủy sản dạng thô và sơ chế. Tuy nhiên trong khoảng các năm từ 1997 đến nay, tình hình đánh bắt nguyên liệu, nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm, cũng như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1997, thị trường xuất khẩu thu hẹp, khiến các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đánh bắt gặp khó khăn. Nhận thấy được vấn đề thiếu nguyên liệu và yêu cầu sản phẩm chế biến sâu của các thị trường xuất khẩu lớn, ngày càng khắt khe về chất lượng ngày càng cao. Ban Tổng giám đốc công ty BASEAFOOD đã tiên phong có chiến lược phát triển sâu, toàn diện các mặt hàng mới-hàng giá trị gia tăng, đi trước đón đầu so với các doanh nghiệp trong tỉnh. Để sản xuất những mặt hàng giá trị gia tăng, chúng tôi chủ trương chuyển dịch cơ cấu sản phẩm, hạn chế sản xuất hàng thô, chú trọng vào thị trường mục tiêu, phục vụ hàng chất lượng cao phục vụ tại bàn. 

Năm 2000, doanh thu 4 triệu USD, chúng tôi phải sản xuất 2.600 tấn. Cơ cấu chủ yếu mặt hàng Surimi, cá nguyên con và các loại mực nang nút nguyên con. Đến năm 2021, doanh thu tăng lên 45 triệu USD, nhưng sản lượng chúng tôi chỉ sản xuất 8.000 tấn. Qua hơn 20 năm, chỉ số doanh thu tăng gấp 11 lần năm 2021 so với năm 2000, trong khi đó sản lượng chỉ tăng gấp 3 lần. Đây là kết quả của quá trình chuyển đổi chiến lược hàng giá trị gia tăng trong dài hạn, chúng tôi đã giải quyết vấn đề nguyên liệu của ngành thủy sản và mang lại hiệu quả về kinh tế, xã hội, môi trường rõ rệt: Sản phẩm xuất khẩu sử dụng ít nguyên liệu, công tác sản xuất giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu đánh bắt; Sản phẩm cấu thành hàm lượng giá trị công nghệ, nhân công giúp gián tiếp xuất khẩu lao động; Giải quyết vấn đề môi trường, hạn chế nước thải, khí thải; Nâng cao ý thức người lao động, cùng chung tay xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, luôn tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng cao; an toàn vệ sinh thực phẩm và thân thiện với môi trường.

Từ sau thời điểm cổ phần hóa năm 2004, Công ty vận hành với cơ chế mới: Tự làm, tự chịu trách nhiệm, giúp Ban lãnh đạo công ty tự chủ trong điều hành công việc. Từ đó Ban Tổng giám đốc công ty mạnh dạn chuyển hướng đầu tư cho sản xuất, đầu tư cải tạo nhà máy, xây dựng hệ thống kho lạnh, đầu tư máy móc thiết bị mới, sáng tạo trong sản xuất. Cụ thể công ty đã nghiên cứu chế tạo ra các hệ thống máy phục vụ sản xuất hàng chất lượng cao-GTGT như: Băng chuyền phục vụ sản xuất, máy rửa bán thành phẩm, máy luộc và làm lạnh thủy sản, hệ thống máy nướng tự động. Từ đó chúng tôi có thể triển khai các mặt hàng GTGT mới: Bạch tuộc tẩm bột, Bạch tuộc sushi, Bạch tuộc cắt luộc, chần các loại, Cá, Tôm tẩm bột, Cá nướng, cá sốt gia vị giúp công ty duy trì chất lượng ổn định. Việc duy trì các tiêu chuẩn sản phẩm thực hiện chiến lược hàng GTGT tạo lợi thế cạnh tranh cho công ty, là yếu tố then chốt để công ty có thể cạnh tranh trên thị trường và bắt kịp với xu thế hiện nay. Duy trì và áp dụng tiêu chuẩn được thực hiện xuyên suốt từ các công đoạn: nguyên liệu, máy móc, quy trình sản xuất, quy trình kiểm tra đánh giá sản phẩm, bao gói cho đến quy trình phân phối đến tay người tiêu dùng. Trong các công đoạn đó, con người quản lý và công nhân sản xuất đóng vai trò quyết định, họ phải tương thích với tiêu chuẩn và đạt chuẩn trong mọi khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.

Với tiềm lực về trang thiết bị máy móc nhà xưởng, đội ngũ quản lý sản xuất, công nhân có tay nghề cao, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng: HACCP CODEX, BRC, MSC, HALAL, FDA, KFDA…, chúng tôi tin tưởng sẽ luôn phát triển bền vững với mục tiêu chiến lược phát triển mặt hàng mới, trong thời gian sắp tới ngoài việc phát triển đa dạng mặt hàng mới trên nền tảng hàng có GTGT cao. Để chủ động nguồn nguyên liệu, hạn chế phụ thuộc vào nguyên liệu đánh bắt, Chúng tôi cũng song song tập trung nguồn lực phát triển mặt hàng từ nuôi trồng chất lượng cao xuất vào thị trường Nhật. Năm 2021 chúng tôi đã xuất khẩu đạt doanh thu 5,5 triệu USD các mặt hàng GTGT từ nguyên liệu tôm chiếm 12% doanh thu. Tiếp tục nghiên cứu phát triển đa dạng mặt hàng, tạo lợi thế khác biệt về sản phẩm, cạnh tranh về giá, đi các thị trường Mỹ, Canada, Nhật.

Trải qua 45 năm hình thành và phát triển ngành thủy sản tỉnh BR-VT và Công ty BASEAFOOD, dưới sự chỉ đạo, điều hành sáng suốt, đường lối và chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp của các đồng chí nguyên lãnh đạo công ty qua các thời kỳ và Ban Tổng giám đốc đương nhiệm, kết quả đã làm chuyển biến và tăng trưởng lớn nhất là tỷ trọng các mặt hàng GTGT trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, tạo lợi thế cạnh tranh cho công ty với các doanh nghiệp khác trong tỉnh. Các chỉ số về chỉ tiêu số liệu sản xuất kinh doanh luôn duy trì và phát triển tăng trưởng qua các năm là cơ sở vững chắc để xây dựng thương hiệu BASEAFOOD ngày một lớn mạnh, xứng đáng là một trong những doanh nghiệp đi đầu trong phát triển mặt hàng giá trị gia tăng, đóng góp vào thành tựu phát triển ngành thủy sản tỉnh BR-VT

Ra đời từ năm 1976, Công ty Hải sản Đồng Nai (tiền thân của Công ty BASEAFOOD) luôn phát huy các lợi thế, đổi mới để phát triển. Trong xu thế hội nhập công ty luôn coi xuất khẩu là động lực và ưu tiên để đầu tư ngày một nhiều hơn, sâu hơn, nên đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong quá trình sản xuất - kinh doanh, nâng cao năng lực, mở rộng quy mô hoạt động, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và góp phần nộp ngân sách Nhà nước đáng kể.

Vào làm việc tại Công ty Hải sản Đồng Nai từ năm 1982, với công việc được giao làm công tác kế hoạch nên bản thân đã có điều kiện theo dõi, cập nhật số liệu thực hiện hàng năm, qua đó khẳng định sự phát triển không ngừng của công ty qua từng thời kỳ. 

Cụ thể, thời kỳ 1976 - 1992, đây là giai đoạn hình thành, hoạt động theo cơ chế tập trung, việc sản xuất kinh doanh theo kế hoạch của nhà nước. Thời kỳ 1993 - 1998, từ doanh nghiệp nhà nước Liên hiệp Xí nghiệp xuất nhập khẩu thủy sản tỉnh BR-VT được UBND tỉnh BR-VT tách và thành lập 2 doanh nghiệp nhà nước, trong đó Công ty Chế biến Xuất nhập khẩu thủy sản BR-VT (BASEAFOOD) được thành lập từ tháng 10/1992 và hoạt động từ năm 1993. Quá trình hoạt động của công ty đến năm 1998 không đạt hiệu quả. Đỉnh điểm của thời hoàng kim về kim ngạch xuất khẩu của giai đoạn này là năm 1996 đạt 10,03 Triệu USD.

Nhưng sau đó, vào năm 1997 và 1998 là 2 năm liên tục rơi vào tình trạng suy thoái, mặc dù UBND tỉnh BR-VT đã đề ra nhiều biện pháp để vực dậy, nhưng tình hình sản xuất kinh doanh của công ty vẫn ảm đạm, không mua được nguyên liệu để sản xuất, không tạo ra được sản phẩm, phá vỡ những mối quan hệ với khách hàng truyền thống, kim ngạch xuất khẩu của năm 1997 chỉ đạt 4,05 triệu USD và năm 1998 cũng chỉ đạt xấp xỉ 0,70 Triệu USD; người lao động nghỉ việc nhiều, từ chỗ 500-600 người, chỉ còn hơn 100 người.

Thời kỳ 1999 - 2004, UBND tỉnh BR-VT đã quyết định điều động nhân sự mới về điều hành quản lý công ty, đây là giai đoạn định hướng và củng cố để phát triển, với sự hỗ trợ của các cơ quan ban ngành trong tỉnh cùng với áp dụng nhiều biện pháp quyết liệt, lãnh đạo mới của công ty đã từng bước khắc phục khó khăn, vực dậy sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả và nâng kim ngạch xuất khẩu ngày càng cao.

Thời kỳ 2005 - 2021, thực hiện chủ trương của Nhà nước, công ty BASEAFOOD đã chuyển đổi thành công mô hình cổ phần hóa vào năm 2004, với sự đổi mới này đã giúp công ty sắp xếp lại phương thức quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh phù hợp. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu phát triển vượt bậc.

Nhìn lại 45 năm - một chặng đường xây dựng và phát triển, BASEAFOOD đã luôn chủ động đi trước trong hội nhập Quốc tế, đẩy mạnh việc áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, gắn sản xuất với xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường xuất khẩu, tập trung đổi mới phương thức quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh sản phẩm. Do vậy, trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh đã đạt nhiều thành tựu khả quan

Xí nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu III vừa được khánh thành và đưa vào hoạt động tại cụm công nghiệp hải sản Lộc An, là một đơn vị có quy mô lớn, được đầu tư mới 100% với máy móc thiết bị hiện đại chủ yếu được nhập khẩu từ EU, đạt được các tiêu chuẩn chất lượng hàng đầu thế giới trong công nghiệp thực phẩm như ISO 22000, BRC, IFS, HACCP Codex. Đây là những tiền đề quan trọng nhất giúp xí nghiệp có thể trở thành đơn vị chủ lực của Công ty chúng ta trong tương lai gần. Việc xây dựng và thực thi một chiến lược sản xuất kinh doanh đúng đắn, sáng tạo và linh hoạt sẽ giúp xí nghiệp đạt được mục tiêu cốt lõi nêu trên. Chiến lược đó sẽ được định hướng dựa trên ba trụ cột căn bản sau:

- Thứ nhất, xây dựng các nguồn cung nguyên liệu đầu vào đủ đáp ứng công suất của xí nghiệp. Công suất thiết kế của nhà máy là 4.500 tấn thành phẩm/năm, nghĩa là mỗi năm cần thu mua khoảng 9.000 tấn nguyên liệu thủy hải sản các loại. Để đảm bảo việc có đủ nguyên liệu để sản xuất thì xí nghiệp cần phải thực hiện cùng lúc ba hoạt động thu mua. 

Một là, nguồn nguyên liệu hải sản thu mua từ hoạt động đánh bắt ngày càng khan hiếm nên không thể chỉ dựa nhiều vào hoạt động thu mua nguyên liệu trên địa bàn hoặc các tỉnh lân cận. Khả năng thu mua trực tiếp nguyên liệu chỉ vào khoảng 30-35%. 

Hai là, nguồn bán thành phẩm và thành phẩm thu mua được từ các nhà máy chế biến khác. Để làm được việc này thì xí nghiệp sẽ phải xây dựng chuỗi cung ứng bằng cách liên kết với các đơn vị khác, dựa trên thế mạnh của các bên liên kết và các mối quan hệ kinh tế bền chặt trong chuỗi cung ứng nhằm làm cho các bên có lợi ích ràng buộc lẫn nhau và tạo ra sức mạnh tổng hợp cho chuỗi cung ứng. Khả năng nguồn cung này sẽ đảm bảo được khoảng 25-30% nguồn đầu vào cho xí nghiệp. Ba là, tăng cường hoạt động nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài. Hoạt động này ngày càng quan trọng và phải hướng tới xây dựng bộ phận chuyên trách để đảm bảo cung cấp khoảng 30-40% tổng lượng nguyên liệu cần cho sản xuất của xí nghiệp.

- Thứ hai, xây dựng một đội ngũ lao động (trực tiếp và gián tiếp) đủ đáp ứng cho hoạt động của nhà máy. Điều này thực sự là một thách thức lớn của xí nghiệp. Theo quy luật phát triển thì nền kinh tế thường dịch chuyển từ thâm dụng lao động sang nền kinh tế thâm dụng vốn (tiền, máy móc thiết bị, công nghệ) nên lực lượng lao động trực tiếp sẽ ngày càng khan hiếm hơn và đây là một xu hướng tất yếu không thể đảo ngược. Vì thế trong quá trình phát triển của xí nghiệp thì cần phải nghiên cứu cải tiến các công đoạn sản xuất để đưa máy móc công nghệ vào thay thế dần sức lao động của con người. Điều này đòi hỏi phải khơi dậy mọi cá nhân trong xí nghiệp mà đặc biệt là những người lao động trực tiếp đóng góp ý tưởng của họ. Tập hợp các ý tưởng của họ có thể làm chúng ta tìm ra các loại máy móc thiết bị hoặc cũng có thể chế tạo một số loại công cụ lao động nào đó. Kinh nghiệm cho thấy các ý kiến đóng góp của người lao động trực tiếp sẽ dẫn đến các cải tiến quan trọng, ít tốn kém và hiệu quả nhanh hơn so với các nghiên cứu sáng tạo của độingũ “học cao”. Một khuyết điểm thường thấy là những người lãnh đạo và quản lý thường không để ý đến ý kiến đổi mới sáng tạo nhỏ của người công nhân, không trân trọng những ý kiến cải tiến sáng tạo đó. Chúng ta cần phải thay đổi tư duy này bằng cách lắng nghe từ những ý kiến đổi mới từ “dưới lên trên”. Ngoài ra, đối với lực lượng lao động gián tiếp thì cần phải tập trung vào hai nhân tố cơ bản là thái độ làm việc và trình độ đào tạo. Theo ASK thì kết quả công việc đội ngũ lao động gián tiếp có đến 70% phụ thuộc thái độ và 30% phụ thuộc vào trình độ đào tạo. Để đáp ứng được yêu cầu công việc ngày càng cao để hội nhập trình độ quản lý ở mức tiên tiến của thế giới thì cần thiết phải đào tạo cho đội ngũ lao động gián tiếp cả thái độ đối với công việc và trình độ chuyên môn. Lâu nay, chúng ta đã rất quyết liệt trong hoạt động tuyển dụng và đào tạo nâng cấp trình độ chuyên môn cho họ nhưng chưa từng đào tạo họ về thái độ làm việc. Đây là một khuyết điểm sẽ phải được khắc phục trong thời gian tới.

- Thứ ba là hoạt động tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Từ trước đến nay chúng ta luôn xem hoạt động này là quan trọng nhất và tập trung rất nhiều nỗ lực để tìm kiếm khách hàng. Vì thế chúng ta đã tìm được nhiều khách hàng ở nhiều thị trường quan trọng trên thế giới từ Mỹ, Canada, Nga, Nhật...Nền tảng kỹ thuật (Internet) và trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và tin học của đội ngũ này phát triển rất nhanh và vì thế đến nay chúng ta đã có thể rất dễ dàng tương tác với khách hàng thông qua các công cụ được phát triển trên nền tảng Internet. Tuy nhiên, hành vi mua hàng của khách hàng B2B không chỉ đơn giản thông qua việc tương tác dựa trên các công cụ này mà là niềm tin, là uy tín của Công ty hoặc của cá nhân đã có mối quan hệ với họ qua thời gian. Để xây dựng mối quan hệ kinh doanh bền vững với khách hàng thì phải đem đến cho họ lợi ích bằng việc đáp ứng đơn hàng của họ kịp thời, chất lượng tốt, thái độ phục vụ hòa nhã, chân thành và các dịch vụ kèm theo để phục vụ họ một cách nhanh nhất, sáng tạo nhất mà không làm tăng chi phí của mình, để họ có yên tâm và ngày càng gắn bó với chúng ta.

Tóm lại, kinh doanh luôn là một thách thức và chưa bao giờ là dễ dàng nhưng nếu có cách làm đúng dựa trên lợi ích mà mình mang lại cho khách hàng thì chúng ta sẽ thành công. Theo tôi, trong ba trụ cột giúp xí nghiệp phát triển trong những năm tới thì nhiệm vụ thứ nhất, xây dựng các nguồn cung nguyên liệu đầu vào đủ đáp ứng công suất của xí nghiệp được xem là nhiệm vụ quan trọng nhất.

Xí nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu IV là đơn vị trực thuộc Công ty BASEAFOOD, được thành lập từ năm 2003, chuyên sản xuất các loại thủy sản xuất khẩu.

Sản phẩm chủ yếu của Xí nghiệp là các loại cá fillet khô như cá chỉ vàng, cá mối, cá ngân, cá đổng, cá mắt kiếng,… Trong đó sản lượng cá chỉ vàng và cá mối là chủ yếu. Sản lượng hàng năm sản xuất khoảng 200 đến 300 tấn thành phẩm. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của xí nghiệp là khối EU, Nga, Ukraine, Nhật Bản, Đài Loan…. Đây là những thị trường khó tính đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao.

Những năm gần đây, nhiều nhà máy chế biến thủy sản được thành lập, tạo ra sự cạnh tranh không nhỏ trên thị trường xuất khẩu thủy sản. Trong bối cảnh đó, buộc Xí nghiệp phải tìm cách cải tiến kỹ thuật, quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn HACCP để đáp ứng yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm. Và code HK 173 ra đời năm 2005.

Với đội ngũ cán bộ kỹ thuật được Nafi đào tạo, Xí nghiệp luôn bám sát sản xuất, cải tiến kỹ thuật không ngừng để tạo ra sản phẩm chất lượng bằng các biện pháp. Thứ nhất là phân tích trong các khâu của quy trình sản xuất để tìm ra các mối nguy làm mất an toàn cho sản phẩm có thể xảy ra gọi là (điểm kiểm soát tới hạn – CCP), áp dụng các biện pháp để quản lý , giám sát và xử lý thường xuyên không để mối nguy đó (bao gồm các mối nguy về vi sinh, về hoá học, về vật lý) xảy ra ảnh hưởng đến sự mất an toàn của sản phẩm. 

Thứ hai, đầu tư nâng cấp nhà xưởng đạt tiêu chuẩn: thoáng mát, vệ sinh không bị ô nhiễm, dễ và thuận lợi cho sản xuất đồng thời cũng dễ cho thực hiện chế độ làm vệ sinh, chống sự xâm nhập của côn trùng, chống lây nhiễm chéo. Thứ ba, duy trì khám sức khoẻ định kỳ cho công nhân hàng năm, bố trí lao động hợp lý, trang bị đầy đủ bảo hộ lao động. Bổ sung, học tập các tiêu chí về quản lý chất lượng sản phẩm cho cán bộ quản lý và công nhân thường xuyên. Thứ tư, xây dựng và thực hiện nghiêm túc chế độ vệ sinh nhà xưởng, máy móc, thiết bị, dụng cụ định kỳ và thường xuyên để sản phẩm không bị lây nhiễm qua dụng cụ thiết bị.

Do áp dụng các biện pháp quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế (HACCP) nhiều năm qua sản phẩm của Xí nghiệp đã đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người tiêu dùng và làm hài lòng những khách hàng khó tính nhất trên thị trường thế giới.

Vai trò của quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn HACCP tại Xí nghiệp trong giai đoạn hiện nay luôn được ưu tiên hàng đầu, đó là cơ sở để chiếm lĩnh, mở rộng thị trường, tăng cường vị thế. Quản lý chất lượng cho phép đơn vị xác định đúng hướng sản phẩm cần cải tiến, thích hợp với những mong đợi của khách hàng.

Sản xuất là khâu quan trọng tạo thêm giá trị gia tăng của sản phẩm. Về mặt chất, đó là các đặc tính hữu ích của sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người ngày càng cao hơn. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, ngoài đầu tư máy móc mới chúng tôi tập trung vào cải tiến kỹ thuật trong công đoạn sản xuất như kỹ thuật phơi, sấy...

Qua thời gian điều hành và quản lý Xí nghiệp, bản thân nhận rõ việc sản xuất phải đạt chất lượng theo yêu cầu của khách hàng và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế mà cụ thể là quản lý theo tiêu chuẩn HACCP, EU là mấu chốt quan trọng nhất. Đó là sự sống còn của doanh nghiệp. Do vậy, theo chỉ đạo của Công ty, Xí nghiệp luôn giữ vững phương châm: “Chất lượng sản phẩm là sự sống còn của Xí nghiệp”. Nội dung này được chỉ đạo xuyên suốt từ trên xuống dưới, đến từng người lao động, được kiểm tra đều đặn hàng tháng, hàng quý, năm theo quy định của Nafi và của Công ty nhằm giữ vững uy tín của Baseafood và code HK 173 trên thương trường trong nước và quốc tế.

 

 

page